Bối cảnh Trận_đèo_Kasserine

Tham vọng của nước Ý phát xít nhằm mở rộng hệ thống thuộc địa của mình ở châu Phi đã châm ngòi cho chiến sự bùng nổ trên mặt trận Bắc Phi năm 1940 khi quân Ý xâm lược Ai Cập thuộc Anh. Quân Ý ban đầu đạt được thắng lợi hạn chế, nhưng chẳng bấy lâu sau thì thế chủ động rơi vào tay quân Anh. Để lật lại thế cờ cho đồng minh Ý của mình, Quốc trưởng Đức Adolf Hitler sai Đại tướng Erwin Rommel kéo Binh đoàn châu Phi (Afrika Korps) vào Bắc Phi tiếp chiến. Về danh nghĩa thì Rommel phải chịu sự điều khiển của Bộ Tổng tư lệnh Tối cao Ý tại Roma, nhưng trên thực tế ông luôn tự do hành động. Sau khi đặt chân lên Tripoli thuộc địa phận Libya vào tháng 2 năm 1941, Rommel dẫn dắt Binh đoàn châu Phi đảo ngược thế trận bằng hàng loạt chiến thắng ngoạn mục trước quân đội Liên hiệp Anh.[5] Lực lượng Đức-Ý dưới quyền Rommel được phát triển thành Tập đoàn Thiết giáp châu Phi (Panzerarmee Afrika) vào ngày 30 tháng 1 năm 1942.[10] Nhưng những khó khăn về tiếp tế cùng với sự sa sút sức khỏe của ông và chủ trương xoáng trọng tâm vào chiến trường Đông Âu của Bộ Tư lệnh Tối cao Lục quân Đức đã khiến cho Thống chế Rommel không duy trì thành quả của mình được lâu: sau khi bị Tập đoàn quân số 8 Anh do Đại tướng Bernard Montgomery chỉ huy đánh bại trong trận El Alamein lần thứ hai trên đất Ai Cập năm 1942, ông đành rút quân về phía tây qua Lybia vào miền nam Tunisia.[5][11]

Thất bại tại El Alamein cùng với cuộc đổ bộ thành công của liên quân Anh-Mỹ dưới quyền Đại tướng Dwight D. Eisenhower lên MarocAlgérie đã đẩy quân Rommel vào thế bị kẹp giữa hai khối quân Đồng Minh. Lo ngại sự thất bại của khối Trục tại Bắc Phi sẽ dọn đường cho quân Đồng Minh xâm chiếm Ý và các lãnh thổ của Đức tại Nam Âu, Hitler điều một lực lượng lớn từ PhápSicilia xuống Tunisia. Thống chế Albert Kesselring – Tư lệnh Chiến trường Phía Nam của Đức từ cuối năm 1941 – được giao quyền chỉ huy toàn bộ lực lượng quân Trục tại châu Phi. Vào thời điểm cuối năm 1942, Tập đoàn Thiết giáp số 5 tân lập của Đức-Ý do Đại tướng Hans-Jürgen von Arnim chỉ huy đã ngăn chặn được ý đồ của quân Đồng Minh hòng tiến ra eo biển trung bộ Tunisia và cô lập Rommel khỏi Tập đoàn Thiết giáp số 5. Bằng việc quét sạch quân Anh khỏi Tébourba trên mạn bắc rồi tấn công dồn dập vào đội quân Anh-Mỹ-Pháp trấn giữ đồi Djebel el Ahmera cho đến khi đoạt được đồi này trong Giáng sinh 1942, Arnim và người tiền nhiệm là Thượng tướng Thiết giáp Walther Nehring cũng đã tăng cường chiều sâu của đầu cầu quân Trục tại Tunisia đồng thời khóa chặt các nẻo đường đến thủ đô Tunis xứ này. Phía Đồng Minh sau đó phải tạm ngưng các hoạt động quân sự trên bộ của mình do những cơn mưa mùa đông đã biến địa hình Bắc Phi thành một mớ bãi bùn lầy lội.[5][11]

Các cuộc tấn công của Arnim

Nehring và sau đó là Arnim buộc phải dùng Sư đoàn Superga yếu kém của Ý để che chắn sườn phía nam của quân mình vào cuối tháng 12 năm 1942. Trong một cuộc tấn công đầu năm 1943, 3 sư đoàn Pháp Tự do do Đại tướng Alphonse Juin chỉ huy đã phối hợp với Sư đoàn Thiết giáp 6 Tập đoàn quân số 1 Anh đánh bại Sư đoàn Superlag và chiếm giữ dãy núi Tây Dorsal cùng phần lớn dãy Đông Dorsal trong miền núi Atlas. Để chỉnh đốn tình hình, Arnim huy động một chiến đoàn gồm các thành phần thuộc 2 sư đoàn Bộ binh 334 và Thiết giáp 10 cùng 17 xe tăng Tiger của Tiểu đoàn Thiết giáp Hạng nặng 501 ồ ạt phản công vào ngày 18 tháng 1. Mặc dù quân Anh giữ được phần lớn trận địa của mình, quân Pháp đã bị đập tan với thương vong rất nặng nề. Lính Đức đã dọn sạch quân Pháp ra khỏi đèo Fondouk, tóm giữ được 4.000 tù binh đồng thời bắn cháy hoặc tịch thu 24 xe tăng, 55 đại bác, 27 pháo chống tăng cùng 228 xe quân sự. Trong những ngày tới, quân Đức cùng sư đoàn Ý nói trên tiếp tục đánh tan các đơn vị Pháp, Mỹ và chỉ dừng quân vào đêm ngày 2324 tháng 1 do thiếu hụt tiếp tế. Đến ngày 30 tháng 1, Arnim lại xua hai chiến đoàn thuộc Sư đoàn Thiết giáp số 21 (Đại tá Hans-Georg Hildebrandt chỉ huy) bất ngờ tấn công đèo Faid và bao vây diệt gọn đồn binh Pháp trên đèo. Thêm 1.047 quân nhân, 25 xe bọc thép và 15 pháo chống tăng của Pháp rơi vào danh sách tù binh và chiến lợi phẩm của Đức.[12][13]

Đáp lời cầu viện của Juin, Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn II Hoa Kỳ Lloyd Fredendall sai Chuẩn tướng Raymond Quillin đem Liên đoàn Thiết giáp A, Sư đoàn Thiết giáp số 1 phản công nhưng bị pháo binh chống tăng của Hilderbrandt phối hợp với các chiến đấu cơ Stuka của Không quân Đức đè bẹp. Vài ngày sau, Arnim lại mở một trận đột kích vào Lữ đoàn Constantine (Pháp) dưới quyền tướng Joseph Welvert và một số thành phần thuộc Quân đoàn II Hoa Kỳ. Quân Đức lại thắng lớn, Lữ đoàn Constantine bị hủy diệt và hơn 1.000 lính Pháp bị bắt sống trong khi Trung đoàn Bộ binh 168 Sư đoàn Bộ binh 34 Hoa Kỳ tổn hao gần 1.100 quân.[12][13] Đến đây, Arnim đã chiếm hầu hết dãy Đông Dorsal và mở rộng đáng kể đầu cầu Tunisia vừa đúng lúc Rommel mang quân chủ lực của mình vào xứ này Tập đoàn Thiết giáp châu Phi và lập thế trận phòng ngự trên phòng tuyến Mareth dọc theo biên giới Libya và Tunisia.[12][13][5]

Những chiến thắng giòn dã của Tập đoàn Thiết giáp số 5 trước liên quân Pháp-Mỹ đã cổ vũ các chỉ huy quân Đức mở một chiến dịch tấn công mới trên đất Tunisia. Rommel hy vọng tập trung hai tập đoàn quân Trục đánh dứt điểm các đội quân Mỹ-Anh-Pháp thuộc Tập đoàn quân số 1 Anh dưới quyền Đại tướng Kenneth Anderson ở mạn tây trước khi quay sang phía đông để giải quyết Tập đoàn quân số 8 Anh. Thủ trưởng của ông là Kesselring cũng có suy nghĩ chiến lược tương tự và lên kế hoạch tận diệt quân đội Mỹ tại Bắc Phi. Cụ thể, Kesselring định điều động Tập đoàn Thiết giáp châu Phi tiến đánh quân Mỹ tại thị trấn ốc đảo Gafsa trong khi Tập đoàn Thiết giáp số 5 công kích thị trấn Sbeitla trên mạn bắc. Sau khi vượt xong các ngọn đèo ở hướng đông, quân thiết giáp Đức sẽ quành lên phía bắc và thẳng tiến ra cảng Borne trên biển Địa Trung Hải. Nếu thành công, chiến dịch này có lẽ sẽ đặt dấu chấm hết cho sự tồn tại của Tập đoàn quân số 1 Anh, hoặc ít ra thì cũng đem lại cho người Đức một thắng lợi cần thiết giúp họ rửa nhục sau thảm họa Stalingrad.[5][14] Nhưng khác với Rommel và Kesselring, Arnim chỉ đề xuất khai thác chiến thắng Faid và chiếm gọn dãy Dorsal bằng một cuộc tấn công quy mô nhỏ vào Sidi Bou Zid. [15]

Trận Sidi Bou Zid

Để giải quyết bất đồng giữa hai thuộc cấp vốn chẳng ưa nhau, Kesselring kết hợp các thành phần trong kế hoạch của cả Rommel lẫn Arnim để quyết định tiến hành hai cuộc hành quân riêng biệt gồm Chiến dịch Gió xuân (Fruehlingswind) – trong đó Tập đoàn Thiết giáp số 5 sẽ tiến chiếm Sidi Bou Zid trên hướng bắc, và Chiến dịch Gió sáng (Morganluft) – trong đó Tập đoàn Thiết giáp châu Phi tiến đánh dọc theo tuyến Gafsa-Feriana-Kasserine. Sau đó, Kesselring nhanh chóng đề ra một kế hoạch cụ thể quy định Tập đoàn Thiết giáp số 5 đánh thọc qua đèo Faid lên Sidi Bou Zid để chiếm gọn dãy Đông Dorsal. Trong đợt tấn công ban đầu, các Sư đoàn Thiết giáp số 10 và 21 sẽ được đặt dưới quyền thống lĩnh của Thượng tướng Pháo binh Heinz Ziegler. Một khi quân Đồng minh bị dọn sạch khỏi khu vực quanh Faid, hai sư đoàn này cùng Tiểu đoàn Thiết giáp Hạng nặng 501 sẽ được chuyển sang biên chế của Tập đoàn Thiết giáp châu Phi. Tiếp theo đó, kế hoạch yêu cầu Arnim từ Pirchon tràn quân từ Pichon lên phía bắc trong khi Rommel đánh thốc vào Gafsa-Tozeur, tiêu diệt Quân đoàn II Hoa Kỳ rồi mở rộng tấn công ra Tebessa. Do mưa lớn kéo dài nên thống chế Kesselring cho Arnim hoãn tiến công đến ngày 14 tháng 2 còn Rommel sẽ xuất quân vào ngày 15. Tổng cộng, lực lượng tấn công của khối Trục lên đến 100.000 quân – với 74.000 lính Đức và 26.000 lính Ý – cùng chưa đầy 300 xe tăng, trong khi riêng Sư Thiết giáp 1 Hoa Kỳ đã có tới 300 thiết giáp.[16]

Chiến trường Tunisia, 30 tháng 1 – 10 tháng 4 năm 1943

Được sự yểm hộ chặt chẽ của các chiến đấu cơ StukaMesserschmitt , các chiến xa Tiger của Tiểu đoàn Thiết giáp Hạng nặng 501 dẫn đường cho 2 chiến đoàn thuộc Sư đoàn Thiết giáp 10 vượt đèo Faid tấn công Sư đoàn Thiết giáp 1 và Trung đoàn 168 Hoa Kỳ vào buổi sáng ngày 14 tháng 2, mở màn trận Sidi Bou Zid. Quân Mỹ bị đánh thảm bại và Đại tá Thomas Drake – Trung đoàn trưởng Trung đoàn 168 cùng phần lớn ban tham mưu của ông bị bắt sống. Hôm sau, Thiếu tướng Tư lệnh Sư đoàn Thiết giáp 1 Orlando Ward tung quân dự bị phản công nhưng bị các Sư đoàn Thiết giáp 10 và 21 của Đức bẻ gãy với thương vong ghê gớm. Cũng trong ngày 15, Đại tá Otto Menton chỉ huy Cụm Đặc nhiệm 288 Sư đoàn Khinh chiến 90 dẫn đầu đoàn quân của Rommel tiến chiếm làng Gafsa nhưng phát hiện ra rằng quân Mỹ đã rút hết khỏi nơi này. Tin rằng Arnim sẽ tăng viện Sư Thiết giáp số 21 cho mình, Rommel lên kế hoạch đánh tới ngôi làng kế tiếp là Ferriana, nơi con đường chia ngả và đem lại cho ông hai phương án khả thi: hoặc là thọc lên phía bắc đánh Tebessa thuộc xứ Algérie, hoặc là thọc qua Theplete đánh Kasserine trên mạn đông bắc. Ông sai Menton dẫn một lực lượng trinh sát được trang bị mạnh vào Ferriana để tìm sự lựa chọn tốt nhất cho kế hoạch mới của ông. [17]

Cuộc bại trận tại Sidi Bou Zid đã buộc Anderson phải phát lệnh rút toàn bộ Quân đoàn II Hoa Kỳ từ dãy Đông Dorsal về trấn giữ khu vực phía tây. Bên kia chiến tuyến, Arnim quyết định duy trì chiến dịch tấn công của mình và huy động Sư Thiết giáp 21 tiếp tục tiến công Sbeitba trong khi Sư Thiết giáp 10 đánh về Fondouk. Ông viện cớ Rommel đã chiếm được mục tiêu của mình (Gafsa) và Sư Thiết giáp 21 còn bận chiến đấu quanh Sidi Bou Zid để từ chối tiếp viện. Mặc dù quân thiết giáp Đức giành được thắng lợi, sự truy kích chậm chạp của Ziegler đã tạo điều kiện cho quân Đồng Minh di tản an toàn khỏi dãy Đông Dorsal trong đêm ngày 17–18.[17]

Sau khi rút chủ lực Sư đoàn Thiết giáp 1 Mỹ về Tebessa, Fredendall chia một bộ phận quân Mỹ-Pháp đi đóng giữ đèo Kasserine trong dãy Tây Dorsal. Lực lượng này bao gồm Trung đoàn Công binh số 19 của đại tá Anderson Moore, Tiểu đoàn I Trung đoàn Bộ binh số 26 Sư đoàn Bộ binh số 1 "Anh cả Đỏ", 2 khẩu đội bích kích pháo 105 ly thuộc Tiểu đoàn Pháo dã chiến 33 Mỹ, 1 khẩu đội pháo 75 ly do ngựa kéo có niên đại từ Chiến tranh thế giới thứ nhất của Pháp và Tiểu đoàn Pháo tự hành chống tăng 894 Mỹ. Đại tá Alexander N. Stark, Trung đoàn trưởng Trung đoàn Bộ binh 26, được Fredendall cử làm chỉ huy trưởng đội quân này. Trong khi đó, tại Sbiba, bộ chỉ huy Tập đoàn quân số 1 bố trí Lữ đoàn Vệ binh số 1 Anh, Trung đoàn 18 Mỹ, 3 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 34 Mỹ, Tiểu đoàn 2 Trung đoàn Hampshire, 3 tiểu đoàn pháo dã chiến Mỹ, các thành phần thuộc 2 trung đoàn pháo chống tăng Anh, một vài binh đội Pháp và Trung đoàn Thương kỵ 16/5 Lữ đoàn Thiết giáp 26 Anh vừa được trang bị xe tăng M4 Sherman. Thị trấn Thala, cách đèo Kasserine 24 km về mạn bắc, được trấn thủ bởi 2 trung đoàn thiết kỵ thuộc Lữ đoàn Thiết giáp 26 của Chuẩn tướng Charles A. L. Dunphie, Tiểu đoàn 10 Lữ đoàn Súng trường, Tiểu đoàn 2/5 Trung đoàn Leicestershire,3 khẩu đội pháo dã chiến, 1 khẩu đội pháo phòng tăng và 1 khẩu đội pháo cối hạng nặng của Anh. Toàn bộ lực lượng Đồng Minh phía bắc và tây bắc Kasserine được đặt dưới sự thống lĩnh của Chuẩn tướng C. G. G. Nicholson, Sư đoàn phó Sư đoàn Thiết giáp 6 Anh. [17][18][19]

Kế hoạch của khối Trục

Vào buổi sáng ngày 17 tháng 2, Rommel điều quân đánh chiếm làng Feriana và Thelepte – nơi đặt căn cứ không quân chính của Đồng Minh trong khu vực phía nam của Tập đoàn quân số 1. Các đơn vị lính Mỹ cản đường quân ông đều bị đè bẹp. Sau đó, Rommel đánh điện gợi ý Arnim hiệp lực cùng ông đánh Tebessa, nhưng Arnim hồi đáp rằng do dãy núi Đông Dorsal rất khó giữ nên quân ông chỉ được bám trụ trên dãy chứ không được tiến đâu xa hơn. Câu trả lời này làm Rommel phẫn nộ vì ông cảm thấy Arnim đang để yên cho đội quân non kinh nghiệm của Mỹ chạy thoát.[20][17] Lúc 14h30 ngày 18 tháng 2, Rommel đánh điện thỉnh cầu Kesselring giao ông chỉ huy các Sư đoàn Thiết giáp 10 và 21 đồng thời cho hai sư này di chuyển đến khu vực Theplete để Rommel thực hiện kế hoạch vượt đèo Kasserine và tiến công quân Mỹ tại Tebessa cách Theplete 72,4 km trên hướng tây bắc. Bằng cách đó, Rommel sẽ thu được một lượng hàng tiếp tế lớn của Mỹ ở phía tây dãy Atlas, xóa sổ nguy cơ quân Đồng Minh tấn công hành lang eo biển nối liền Mareth với Tunis và đồng thời uy hiếp mạn sườn phía nam của Tập đoàn quân số 1 Anh.[17][8] Cá nhân Kesselring rất tán đồng với kế hoạch này và ông đệ trình nó lên Bộ Tư lệnh Tối cao Ý tại Roma để xin sự chấp thuận tối hậu của các thủ trưởng Ý.[21]

Chỉ vài tiếng đồng hồ sau, Kesselring chính thức cử Rommel làm tư lệnh tất cả mọi lực lượng cơ động của phe Trục ở châu Phi, kể cả các Sư đoàn Thiết giáp số 10 và 21. Mừng rỡ, Rommel lập tức phát lệnh tổng tấn công Kasserine trong buổi sáng ngày 19 tháng 2. Nhưng vị thống chế không thể phấn khởi được lâu: trong một chỉ thị vào sáng hôm sau, Bộ Tư lệnh Tối cao Ý đồng ý chuyển giao hai sư đoàn thiết giáp cho Rommel nhưng lại ra lệnh ông đem quân vượt các đèo Kasserine, Sbiba nhằm đánh thọc lên Thala và Le Kef (1 thị trấn tọa lạc sau lưng Quân đoàn XIX Pháp và cách Tebessa 161 km trên phía bắc), chiếm giữ toàn bộ dãy Tây Dorsal và uy hiếp sườn của Tập đoàn quân số 1 Anh. Đây chính là phương án tấn công mà các chỉ huy cấp cao của Anh-Mỹ dự đoán Rommel sẽ tiến hành. Trái lại, Rommel muốn đánh lên mạn tây bắc chứ không phải mạn bắc vì ông hiểu rằng một mũi thọc theo hướng Thala và Le Kef sẽ buộc ông phải chia nhỏ quân mình và dễ dàng bị hở sườn sau khi vượt xong các đèo. Mặc dù Rommel hiểu rằng kế hoạch đánh Tebessa của ông có ẩn chứa một số rủi ro, thành công của kế hoạch này sẽ mang lại cho quân Trục những hàng tiếp tế hết sức cần thiết, đồng thời thủ tiêu nguy cơ quân Đồng Minh mở rộng hoạt động quân sự vào miền trung Tunisia và có lẽ sẽ đem lại cho Không quân Đức một căn cứ tiền tiêu tại Youks-les-Bains về hướng tây Tébessa. Do đó, vị thống chế cay đắng chỉ trích đường lối của Bộ Tư lệnh quân Ý là thiển cận đến mức "đáng kinh ngạc và ghê sợ". Dù cho Rommel có tuân thủ thượng lệnh hay không, thì ông vẫn phải tấn công và chiếm đèo Kasserine, nơi người Mỹ đang tập trung và chỉnh đốn lực lượng của mình. [22][21]

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trận_đèo_Kasserine http://www.americainwwii.com/stories/facingthefox.... http://www.historynet.com/battle-for-kasserine-pas... http://www.lbdb.com/TMDisplayBattle.cfm?BID=116&WI... http://www.history.army.mil/books/Staff-Rides/kass... //tools.wmflabs.org/geohack/geohack.php?language=v... https://archive.org/details/battlegroundsgeo00step https://archive.org/details/blitzkriegnolong0000mi... https://web.archive.org/web/20030910054005/http://... https://books.google.com.vn/books?id=1oF3NIMHCsAC&...